(Post- ngày 10/9/2005)
Chương 3: Thương mại
Nếu như hiểu chương trình có khả năng thương mại là
chương trình có thể bán được ra tiền thì chương trình thương mại đầu
tiên của FPT là chương trình tính dự toán công trình do anh Bảo, Nam
và Hùng râu làm cho anh Nhuận. Lúc đó FPT còn có một xí nghiệp Cơ-Điện-Lạnh
do anh Nguyễn Đức Nhuận làm giám đốc chuyên nhận các công trình thiết
kế hệ điều hòa. Thấy các kỹ sư cặm cụi tính toán các dự toán rất phức
tạp, nhất là mỗi khi phải thay đổi kinh phí hay Nhà nước thay đổi các
thông tư nghị định cho xây dựng cơ bản, Hùng Râu nảy ra ý định tự động
hóa. Khi nghe hắn trình bày xong, anh Bảo cười khẩy, rồi cặm cụi lập
trình luôn. Tôi khi đó đang học nghề cũng mon men xin một chân viết
chương trình đọc các file tham số để truyền cho chương trình tính và
in của anh Bảo.
Khi in ra được một tập giấy dày, anh Nhuận phấn khởi
lắm. Hùng Râu khẳng định là anh có trả cho 3 chúng tôi 1.000.000 đồng
(một số tiền khá lớn vào năm 1989 khi lương của chúng tôi chỉ là 30.000/tháng)
và hắn đã chia đều cho 3 người. Tuy nhiên tôi chẳng nhớ là mình đã nhận
được đồng nào cả. Có lẽ vợ đã thu hết từ lúc nào mà không biết. Không
biết chương trình của chúng tôi có giúp được gì không, nhưng anh Nhuận
đã thắng thầu đề án lắp đặt hệ thống thông gió cho Đài truyền hình Việt
nam trị giá hơn 1 tỷ đồng. Một cuộc đấu thầu có tính chất lịch sử đầu
tiên của FPT, mở màn cho seri thắng lợi của anh Ngọc và anh Bảo sau
này. Tôi vẫn còn nhớ là được dự liên hoan ở Nhà hàng Quốc Tử Giám cực
kỳ sang trọng. Về sau này cũng có nhiều công ty chuyên về làm và bán
các phần mềm dự toán này. FPT không hiểu sao không quan tâm nữa.
Sau vụ này anh Nhuận trở thành nhân viên tiếp thị máy
tính đắc lực. Câu nói cửa miệng của anh là "Máy tính hay lắm, ấn
một cái là nó in ra lung tung cả", rất có ấn tượng với khách hàng.
Sau một thời gian, anh Nhuận tách ra khỏi FPT lập thành Emeco, nghe
nói làm ăn cũng phát đạt. Rất lâu sau đó, chiếc máy tính Foremost lịch
sử đầu tiên của FPT vẫn còn chạy ở văn phòng xí nghiệp. Đã có lúc nghe
nói FPT sẽ mua lại để làm kỷ niệm nhưng chẳng thấy ai thực hiện cả.
Typo4
Không hiểu những người khác thế nào, đối với tôi, đề
án có tính chất quyết định trong việc trưởng thành như một người lập
trình và quản trị dự án là đề án với mật danh là Typo4. Chắc là tôi
phải dành nhiều trang hơn cho đề án này.
Số là trong thời gian du học tại Grenoble, Pháp, anh
Ngọc có quen được với một anh Việt kiều tên là anh Long, cũng là một
fanatic trong lập trình. Chắc chắn là đã nghe không ít hơn một lần bài
giảng của anh Ngọc về sự thông minh của các lập trình viên Việt nam,
anh Long ôm mộng về nước tổ chức lập trình làm ăn lớn. Và anh làm thật.
Lần đầu tiên tôi gặp anh là khoảng giữa năm 1989, trong
buổi họp đầu tiên với các lập trình viên "tài năng và giàu kinh
nghiệm" của Việt nam. Tôi còn nhớ là rất ngạc nhiên, quái lạ ông
Việt kiều này còn gầy hơn cả mình. Vâng một người nhỏ thó, nhưng kế
hoạch của anh thì không hề nhỏ. Thửơ đó Windows còn là một thuật ngữ
hết sức xa lạ. Bản thân tôi mới nhìn thấy một lần bản Windows 1.0 tại
Viện nghiên cứu Khoa học Giáo dục, và thấy nó hết sức không thân thiện.
Tuy nhiên, anh Long đã nhìn thấy trước tương lai tươi sáng (?) của Windows,
anh quyết định bỏ tiền túi, về Việt nam chiêu mộ quân sĩ. Typo4 là code
name của chương trình lên trang chuyên nghiệp chạy trên Windows mà anh
Long định thực hiện. Nói chuyên nghiệp là để phân biệt với chương trình
Ventura lúc đó đang rất thông dụng. Theo anh Long, Typo4 không nhằm
mục tiêu đại trà mà chỉ để dành cho các nhà in chuyên nghiệp. Tôi còn
nhớ sở dĩ gọi là Typo4 là để nhấn mạnh khả năng tách làm 4 màu của mỗi
bản in chứ không phải là version xiếc gì !
Qua anh Ngọc, anh Long liên kết với khoa Tin học BK
để thuê địa điểm và tuyển mộ quân sỹ. Do có chân trong FPT, vả lại hồi
đó chúng tôi cũng chưa có việc làm, anh Ngọc kết nạp tôi với anh Bảo
vào đội. Anh Bảo thì rõ vì lúc đó anh đã tham gia vào rất nhiều đề án
lập trình và đã là một người nổi tiếng. Còn đối với tôi đó là một sự
may mắn. Trong mấy tháng đầu tôi toàn lo bị đuổi. Có đến hơn 10 người
tham gia vào đề án. Sau đó rơi rụng bớt chỉ còn có a. Ngọc, tôi, a.
Bảo, Mr. Vũ Đức Vợng, Mr. Nguyễn Văn Lợi, Mr. Tô Thành. Sau này có thêm
Trần Ngọc Trí viết về truyền tin và Mr. X chuyên dịch các lệnh in của
Windows sang dạng Postscript.
Cũng muốn nói thêm một chút về những đồng nghiệp này.
Thực ra thì tôi cũng nhận bừa là đồng nghiệp vì lúc đó chưa thể dám
coi mình là lập trình viên.
GS Đại học Bách khoa Tô Thành hồi đó có một chương
trình rất ấn tượng mà chúng tôi hay gọi là Hoa thơm Bướm lượn (tôi có
nhắc tới lúc đầu). Chương trình này có thể coi như là chương trình Multimedia
đầu tiên giới thiệu những khúc thơ tình trong cảnh một đàn bướm và chuồn
chuồn dập dờn với tiếng nhạc réo rắt. Bây giờ tôi thấy vẫn còn có chỗ
dùng chạy demo. Hay nhất là cách anh vẽ những bông hoa bằng các đường
Sin ngẫu nhiên, rất đẹp.
Vũ Đức Vượng, học ở Bungari về, về sau còn có một thời
gian dài hợp tác với FPT để làm các chương trình lễ tân khách sạn và
kế toán. Có thể nói không ngoa là anh có mặt trong buổi ban đầu của
Balance. Hiện nhà tôi còn có cái tủ do anh môi giới một người đóng hộ.
Nguyễn Văn Lợi là một trong số ít những người Việt
nam được học ở Bỉ. Đó là lứa năm trước chúng tôi, cả một khóa được phân
đi Rumani, vì lý do gì đó bọn Ru từ chối, thế là lại được sang tư bổn.
Đúng là Tái ông mất ngựa. Anh Lợi làm ở Viện Điện tử, cũng là một địa
chỉ Tin học nổi tiếng thời bấy giờ.
Lại nói về Typo4. Việc đầu tiên chúng tôi phải làm
là lăn ra học Windows và MS C. So với Turbo C đang rất phổ biến hồi
đó, lập trình MS C là cả một cực hình: vừa chậm, vừa không có WorkBench,
không có debug. Tuy nhiên đổi lại MS C có khả năng Link thành file to
để load từng đoạn và hơn nữa tương thích với Win. Để nghiên cứu, anh
Long mua hẳn bộ SDK của Win 2.1 rất tân tiến. Và chúng tôi bắt đầu làm
quen với WinMain, GetMessage, GetDC, BitBlt,... Tất nhiên so với các
bạn làm Visual Basic bây giờ, chúng tôi trông giống những ông thợ xây
chứ không phải nhà kiến trúc. Còn nhớ, điều làm tôi rất bất mãn lúc
bấy giờ là Win không có hàm OpenFile() standard. Mỗi đứa viết một kiểu.
Như một người thiết kế tổng thể, anh Long đã bỏ ra
rất nhiều thời gian để quy định các phương thức để mọi người có thể
làm việc với nhau. Một trong những cách đó là hàm của ai viết phải có
tên của người đó ở đầu, chẳng hạn Vdv_MenuX() hiểu ngay là hàm của Vũ
Đức Vượng. Chúng tôi còn học cách chia sẻ và chuyển các cấu trúc dữ
liệu. Rất bổ ích. Chỉ riêng có một điều anh Long không thành công, đó
là bắt chúng tôi làm tài liệu một cách có bài bản. Không hiểu là tự
chúng tôi dốt hay thực sự việc đó cũng không cần thiết.
Làm được một thời gian, anh Bảo được hội làm nhận dạng
mời đi Pháp dài hạn. Chúng tôi chính thức còn 5 người. Anh Ngọc chuyên
lo vẽ và lập trình các loại DialogBox, trong Win 2.x còn khá phức tạp.
Anh Lợi chuyên trách về Editor. Vượng về menu và các hàm khung. Tôi
và Tô Thành làm việc khá chặt chẽ với nhau. Theo thiết kế, trang in
sẽ là một tổ hợp các hình hình học có chứa text hoặc image ở bên trong.
Kiểu như Frame trong Word. Tô Thành chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ
các objects đó bao gồm các hình chữ nhật, elip và zigzag. Nhiệm vụ của
anh là thông báo cho tôi trên một line, chỗ nào là chỗ trống cho text.
Nhiệm vụ của tôi là đọc text từ buffer của Editor và fill vào những
chỗ trống đó theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của typography. Thiết kế
đòi hỏi rất cao, các hình là tùy ý và có thể quay, chồng chéo lên nhau,
có thể transparent hoặc solid. Về mis en page (lên trang) cũng rất khắt
khe. Tôi còn nhớ chúng tôi phải phân biệt đến 8 loại space (ký tự trắng)
thể hiện như nhau trong điều kiện bình thường nhưng khác nhau cơ bản
khi co giãn để lên trang. Một ví dụ để nói lên sự đòi hỏi đó: thửơ đó,
Win chưa có font true type. Để thể hiện đúng kích thước của từng chữ,
tôi phải dùng các font scalable như Roman. Tuy nhiên chúng có nhược
điểm là display rất chậm. Một hôm tôi mới láu cá, tính sẵn từng dòng
và play cả dòng kiểu máy in dòng. Tốc độ được cải thiện đáng kể. Phấn
khởi, hôm sau gọi anh Long đến demo, không dè anh chửi cho té tát. "Tôi
không cần các anh làm nhanh, mà cần các anh làm đúng. Anh phun ra từng
dòng, thì ai đảm bảo khoảng cách giữa các chữ là đúng" Vậy đó,
chúng tôi phải tính chi li khoảng cách giữa các chữ cái trong bảng font
để đảm bảo phân bố text một cách tối uư nhất theo yêu cầu của người
dùng.
Tất nhiên không phải chỉ có được. Chúng tôi cũng đã
bao nhiêu lần kéo nhau ra quán, đòi đập chén bỏ việc vì chẳng hiểu vì
sao làm mãi vẫn thối. Chẳng hiểu vì sao ông Long vẫn không hài lòng.
Lòng tự trọng nhiều lúc cao ngùn ngụt. Mâu thuẫn chủ yếu là cách đánh
giá công việc giữa cá nhân từng người và anh Long. Sau này khi có dịp
phụ trách thiết kế tôi mới hoàn toàn thông cảm với những lo toan của
anh Long.
Cũng may là hồi đó tôi chưa biết gì, nên toàn ngồi
im, vả lại anh Ngọc luôn luôn là người đứng ra hòa giải. Vì thế anh
em tôi vẫn đi được đến cùng mà không sứt mẻ.
Sau chín tháng 10 ngày, sản phẩm cũng được ra đời.
Vì in là in ra file Postscript nên phải mang sang tận Bộ Nội vụ có một
máy LaserWriter mới in được. Khi anh Long mang bản in thử về, anh em
chúng tôi ai cũng thấy sướng. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết một chương
trình khác có thể lên được những trang đẹp như vậy. Không hiểu anh Ngọc
còn giữ mẫu nào không.
Tuy như anh Long nói, định 10 mới chỉ làm được 3, Typo4 thực sự đã là
trường học lớn đầu tiên cho tôi. Lần đầu tiên tham gia một chương trình
lớn tôi đã gặp may khi được tiếp xúc với những công nghệ hiện đại nhất,
được làm việc dới sự chỉ huy của một người giàu tham vọng và biết cách
thực hiện nó, được làm việc đòi hỏi tính đồng đội cao trong một môi
trường gần gũi và thoải mái. Cám ơn anh Long và Typo4 rất nhiều.
Bài học Typo4 cũng chỉ ra rất rõ những điểm mạnh và
yếu của những người lập trình trong nước. Rõ ràng chúng ta có những
lập trình viên giỏi, sáng tạo, có khả năng thực hiện được những công
việc đồ sộ, phức tạp. Nhưng chúng ta thiếu những người có tầm nhìn xa
hơn, đoán được trước xu hướng phát triển, đi vào lĩnh vực mới. Trong
số ít ỏi những người có khả năng đấy, than ôi, hầu như không ai có đủ
sự dũng cảm và tự tin để chọn đó làm sự nghiệp của đời mình. Các đề
án xuất sắc của 3C, AIC, Viện Tin học mãi mãi chỉ là những kỷ niệm đẹp
vì không có người dám đặt cược sự thành đạt của mình vào những sản phẩm
đó.
Năm tháng trôi đi, càng ngày chúng ta càng nhận thức
được rằng tiềm năng duy nhất của Công ty và Đất nước chỉ là con người.
Và công nghệ phần mềm dường như đã thuyết phục được các chính khách
như là con bài chủ đạo trên con đường Việt nam tiến lên xã hội mới.
Ngày nay chúng ta ngậm ngùi nhớ lại những cơ hội đã bị bỏ qua để bắt
tay vào làm lại từ đầu?!
Phòng vé Việt nam
Airlines
Hợp đồng phần mềm thương mại đầu tiên của FPT là Hệ
thống đặt vé giữ chỗ cho Phòng vé Hàng không Việt nam Hà nội, cuối năm
1990. Trước đó một chút, nhờ nỗ lực của anh Phan Quốc Việt (Việt tròn
- nguyên chánh văn phòng PetroViệt nam), Trần Ngọc Trí cũng đã triển
khai một cái gì giông giống như chương trình truyền tin cho Ngân hàng
Công thương Hải Hưng. Tuy nhiên cũng mới chỉ dừng ở giai đoạn demo.
Quá trình dẫn dắt đến hợp đồng, tôi không được rõ lắm,
chi tiết xin hỏi anh Bùi Quang Ngọc (nay là NgocBQ@fpt).
Phòng vé máy bay lúc đó có thể coi là một tụ điểm,
bởi vì vé máy bay cực hiếm, nhất là những chuyến đi Nga. Phòng vé lúc
nào cũng đông như hội. Trưởng phòng vé Hà nội lúc đó là chị Phan Hạnh
Thỏa, thiếu tá quân đội. Cũng nhờ có công giúp đỡ lớn của chị Thỏa và
chị Hòa phó phòng mà chúng tôi mới hoàn thành được chương trình. Nhóm
đề án do anh Ngọc chủ trì có tôi, Đinh Thế Phong, Trần Ngọc Trí, Phan
Minh Tâm và Cường. Tôi nhớ là làm việc rất bài bản, buổi họp đầu tiên
là anh Ngọc trình bày về các tình huống xảy ra deadlock trong quản trị
dữ liệu. Với công cụ FoxBase, Trần Ngọc Trí đã tạo ra cả một thư viện
những hàm giúp cho chúng tôi có thể trình bày màn hình đẹp chẳng kém
gì FoxPro bây giờ. Cũng cụp xòe, có Shadow, Windows, chữ trôi,...
Chương trình được xây dựng trên mạng 10Net. Cũng phải
nhắc đến lịch sử mạng này một chút vì dù sao nó cũng là cơ sở cho chương
trình thương mại đầu tiên của FPT. Ngay từ khi mới thành lập ISC, anh
Công đã khẳng định LAN là tất yếu và do đó chúng ta phải tìm cách xây
dựng 1 mạng LAN, ít nhất là tại FPT. Thời gian đã chứng minh là anh
rất có lý. Cho đến bây giờ, FPT vẫn chưa có gì cao hơn ngoài việc lắp
các mạng LAN. Tôi luôn luôn kính trọng anh Công không phải vì kiến thức
mà vì anh là người dám đưa ra các dự báo. Cũng ít người hiểu được vì
sao anh lại rời FPT. Còn nhớ khi phân đất tại khu Thủ lệ, anh nói rất
tự hào: "Bây giờ có cơ hội để cho con tao được ở gần bọn mày cho
có trí thức". Chả là nhà anh ở làng Kim Liên, anh cho là rất nhà
quê.
Theo đề nghị của anh, giữa năm 1989, FPT đã đặt mua
5 card mạng Ethernet của hãng 10Net, được kèm luôn cả hệ điều hành mạng
kiểu peer-to-peer, tốc độ 10M. Sau một hồi mày mò, cuối cùng Võ Mai
cũng dựng lên được và đó là niềm tự hào về công nghệ đầu tiên của FPT.
Đứng về khía cạnh người dùng, mạng này có một số tính năng lý thú như
khả năng chating, mail, BBS included. Về khía cạnh quản lý, nó cho phép
supervisor kiểm tra toàn bộ access vào mạng thậm chí cả các actions
cụ thể như người dùng sử dụng interrupt nào,... rất tiện lợi cho việc
bẫy lỗi chương trình. Bây giờ tôi vẫn ngạc nhiên là tại sao Novell Netware
lại không có những utilitties như vậy.
Lại quay về Phòng vé. Đúng ngày 1/1/1991, sau 3 tháng
lập trình, Phòng vé chính thức khai trương sử dụng chương trình mới
với một mạng 1 máy chủ Olivetti M300 và 6 máy con Olivetti PCS286 và
PCS86. Lần đầu tiên, khách hàng được nhận những tờ hóa đơn và PNR do
máy tính in ra. Anh Bình lúc đó sướng lắm đọc diễn văn khen ngợi luôn
luôn.
Như trên có nói, cùng tham gia vào đề án có Mr. Cường.
Đó là một thanh niên khá bảnh trai nhanh nhẹn và thông minh. Tốt nghiệp
Toán, Đại học Tổng hợp. Anh được nhận vào FPT rất đơn giản: anh đích
thân gặp anh Bình và tuyên bố "Em là nhân tài, anh nên nhận em".
Anh Bình đã choáng váng và không thể từ chối lời đề nghị đấy. Tiếc thay
giờ đây ít người dám học Cường ở điểm này. Trong thời gian thực hiện
hợp đồng, Cường đã có những quan hệ rất tốt với HKVN, khi đó mới bắt
đầu xây dựng lại bộ máy tin học của mình. Tôi rất tiếc vì không giữ
được anh ở lại FPT.
Chúng tôi kịp đưa thêm nhiều dịch vụ mới. Đầu tiên
là thay máy Telex bằng chương trình của Phan Minh Tâm, cho phép gửi/nhận
các yêu cầu giữ chỗ qua SITA từ bất kỳ máy tính nào. Chương trình này
của Tâm sau đó được giải nhất cuộc thi các công trình sinh viên ở Đại
học Bách khoa Hà nội, Tâm đã tốt nghiệp với loại xuất sắc. Đó cũng là
một kiểu như chương trình mail bây giờ, chạy 24/24, ban ngày thì nối
vào mạng, tối lại tách ra chạy độc lập. Đối với Đức béo, mỗi khi phải
bảo hành máy tính Telex là hắn lại kêu trời vì bàn phím toàn nước chè
với vỏ hạt hướng dương. Chương trình này là tiền thân cho Telex Server
của Nguyễn Khánh Văn sau này, hiện vẫn đang chạy ở hàng chục chi nhánh
ngân hàng Việt nam và nước ngoài. Phan Minh Tâm, nhờ có những tài năng
đột xuất trong việc bắt Virus cho UNDP đã được cất nhắc lên phụ trách
kinh doanh của ISC. Cuối năm 1994, anh đột ngột rời FPT sang TOGI để
lại niềm tiếc thương vô hạn cho bọn Tiến béo, Hải kều.
Sau đó, theo yêu cầu của chị Hòa phó phòng, chúng tôi
thiết kế một chương trình kiểu như Queue Management cho phép theo dõi
tình trạng làm việc của từng máy để bảo đảm phân khách tối ưu. Hồi đó
tôi có viết một chương trình thường trú nhỏ để capture màn hình một
cách thường xuyên và gửi về máy theo dõi. Mr. Phong phục lắm, nói hồi
xưa dùng các hệ thống kiểm tra chỉ biết được thông số chứ chưa bao giờ
nhìn được màn hình cả. Lại nói về Mr. Phong, anh là phó tiến sĩ (chẳng
biết môn gì) từ Tiệp về, lúc đó đang dạy ở Bách khoa. Đối với tôi, anh
là thần tựơng vì đã phá lên cười ha hả khi có một cậu Tây xì xồ cái
gì đó. (Tiếng Anh của tôi lúc đó không hơn gì trẻ con 1 tuổi). Phong
cũng là một tay STico có hạng. Hồi đó anh có một bất mãn là khi lập
trình thường bị anh Ngọc đứng đằng sau nhìn nên hay rủ tôi đi uống cafe
cạnh bờ Hồ để chia sẻ. Sau này còn gặp anh làm cửa hàng trưởng cho anh
Trần Xuân Thuận.
Tuy nhiên cuộc đời không chỉ toàn hoa thơm. Chạy được
quãng 1 tháng, chương trình giở chứng thỉnh thoảng lại treo cứng toàn
mạng. Chỉ có cách boot tất cả lại mới thôi. Đó là một điều cực kỳ bất
tiện cho các chị bán vé vốn đều tuổi cao lười học cả. Chúng tôi rình
mò để bẫy được thời điểm treo. như trên đã nói, chúng tôi còn có khả
năng in toàn bộ tình trạng data và các thanh ghi tại thời điểm đó. Vậy
mà vẫn không phát hiện được tại sao. Đành đưa ra phương pháp cổ điển,
cử Trần Ngọc Trí ngồi làm việc ngay tại 1A Quang Trung, có sự cố thì
xử lý luôn. Nhưng tôi vẫn ức lắm, không chịu thua. Hôm 2 Tết Âm lịch
năm 1991, phòng vé đóng cửa chưa tiếp khách, tôi buồn tình xông ra đó
ngồi, bật mạng lên hy vọng kiếm được cái gì đó không bình thường. Đúng
là gái có công, chồng chẳng phụ, tất cả các dòng config.sys đều specify
IRQ=2 là default lúc cài đặt. Như trên đã nói 10Net đã có từ lâu và
đặt default cho máy XT, mà các máy chúng tôi cài ở phòng vé lại là AT286.
Tôi mừng quýnh, đặt lại IRQ=3 và gọi điện báo cho mọi người đều biết.
Quả nhiên sau đó lỗi treo vô duyên đó biến mất.
Hệ thống đặt chỗ cho hàng không là khá phức tạp theo
số lượng, tần suất giao dịch cũng như sự đòi hỏi về tính ổn định tức
là những vấn đề về khai thác sử dụng. Có lẽ đó là điểm mà chúng tôi
đã bỏ qua trong giai đoạn thiết kế vì quá tập trung vào những vấn đề
có tính kỹ thuật. Khi khối lượng giao dịch lớn đến một mức nào đấy,
các vấn đề về tổ chức sử dụng và quản trị giao dịch trở nên quan trọng
hơn nhiều bản thân các thuật toán xử lý giao dịch đó. Cùng thời gian
chúng tôi thực hiện chương trình ở phía Bắc, các đồng nghiệp ở AppInfo
cũng thực hiện chương trình tương tự ở Phòng vé Phía Nam. Đội AppInfo
lúc đó có anh Khúc Trung Kiên (hiện ở FSS, tức kien@fpt), anh Trường,
anh Tâm. So với phòng vé Hà nội, thì chương trình phía Nam có tính thực
dụng hơn hẳn. Điều đó có được do nhiều nguyên nhân, nhưng lý do chính
theo tôi là nhờ sự khảo sát chi tiết các phòng vé của các Hãng nước
ngoài tại HCM, điều mà chúng tôi đã hoàn toàn bỏ qua. Có vô khối những
vấn đề tưởng như là vụn vặt nhưng với một quy mô giao dịch lớn lại trở
nên vô cùng quan trọng, chẳng hạn việc sử dụng menu hay dòng lệnh, việc
chặt các chặng bay riêng rẽ hay lưu trữ thống nhất.
Thực chất chúng tôi đã tự động hóa đúng quy trình bằng
tay hiện có của các nhân viên bán vé cũ mà không phải đưa ra quy trình
mới trên máy tính. Kinh nghiệm các đề án về sau cho thấy, phương pháp
đó chỉ áp dụng được cho những bài toán có tính ngắn hạn mà thôi.
Với tất cả những thành công và thiếu sót trên, trong
suốt hơn 1 năm hoạt động, Phòng vé 1A Quang Trung đã là trường học lớn
của chúng tôi về việc ứng dụng tin học vào cuộc sống. Nếu sự phát triển
của phần mềm FPT có thể coi là thành công thì không thể không kể đến
đề án này. Tôi muốn cám ơn tất cả các đồng nghiệp đã tham gia thực hiện
đề án, các Mrs Thỏa, Hòa, Khanh, Trang, Mr. Hậu, Cường ở Hàng không
Việt nam về sự kiện đó. Sau này HKVN đã thay chương trình bằng hệ giữ
chỗ toàn cầu Gabriel-2.
Nhờ kinh nghiệm thu được ở đây, năm 1992, chúng tôi
đã giúp FPT-HCM thực hiện chương trình cho Pacific Airlines, một hãng
hàng không cổ phần mới ra đời. Cùng làm với tôi có Nguyễn Tuấn Hùng
(FPT.HCM hiện nay, tức [email protected]) và Mr. Sơn béo (tức net.lab@fpt),
hiện là trưởng phòng mật mã của Ban IT-2000. Chương trình đó còn chạy
cho đến thời gian gần đây mới bị thay bằng Gabriel sau những cố gắng
thuyết phục nâng cấp không thành công của Tuấn Hùng. Nhắc đến Pacific
Airlines không thể nhắc đến em Thiên Nga, trợ lý đắc lực của chúng tôi
lúc đó. Không biết bây giờ em làm gì, ở đâu?
MSB
Có lẽ đề án Tin học hóa Ngân hàng Hàng hải là đề án
lớn nhất về quy mô, nhanh nhất về thời gian triển khai và hiệu quả nhất
cả về kinh tế, hiệu dụng cho Ngân hàng và đào tạo cán bộ của FPT.
Lúc đó là vào khoảng đầu năm 1991. Không hiểu do xui
khiến thế nào, anh Trương Gia Bình gặp được anh Chu Quang Thứ lúc đó
đang là Phó Tổng Giám đốc Liên hiệp Hàng hải. Cả hai đều là những người
quyết đoán và mộng mơ nên đã nhanh chóng thỏa thuận được về việc FPT
sẽ giúp MSB (lúc đó mới chỉ tồn tại trên giấy tờ) tin học hóa toàn bộ
các nghiệp vụ của mình. Đổi lại FPT sẽ có 5% cổ phần và được góp 5%
cổ phần nữa trong tổng số X tỉ đồng vốn đăng ký của MSB. Cho đến tận
bây giờ, đây vẫn là hợp đồng có một không hai của FPT. Quán cafe Emotion
nếu thành công, cũng chỉ là một cái bóng mờ của thỏa thuận này. Tuy
nhiên, về các khía cạnh kinh tế, xin nhường lời cho các anh Bình, Tiến,
Hà. Chúng ta lại quay về kỹ thuật.
Tháng 3/1991. Lúc đó chương trình ở Phòng vé Quốc tế
mới tạm yên, anh em đang trong giai đoạn thư giãn. Anh Ngọc (Bùi Quang),
gọi tôi ra ngoài hành lang trao đổi: "FPT đã đạt được thỏa thuận
với Ngân hàng Hàng hải. Về mặt kỹ thuật nhóm Lộc-Đồng-Châu trong HCM
sẽ đảm đương. Tuy nhiên với FPT, Ngân hàng là một hướng đi chiến lược,
Công ty muốn em xông vào." Tất nhiên là chẳng có lý do gì để từ
chối, tôi về nhà tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh để vào trận chiến mới. Phải
nói là cũng hồi hộp vì trước đó tôi hoàn toàn không có khái niệm i-tờ
gì về ngân hàng cả. Đề án ở HKVN cho thấy việc thiếu hiểu biết cặn kẽ
về nghiệp vụ có thể dẫn đến những hậu quả như thế nào. Đấy là đứng từ
quan điểm bây giờ mà nói, chứ hồi đó chúng tôi cũng vẫn đang còn hào
hứng lắm.
Trước mắt là chuyến đi thụ giáo vào HCM để gặp nhóm
các đàn anh Lộc-Đồng-Châu, chuyến công tác xa đầu tiên của tôi. Nếu
không kể những chuyến xuống Hải phòng để áp tải sắt thép do đổi máy
tính Olivetti mà có. Đó cũng là những kinh nghiệm hết sức thú vị, tiếc
rằng các bạn lập trình trẻ bây giờ khó có hy vọng mà được trải qua cảm
giác lo sợ, hoảng hốt khi đống thép trên xe vì quá nặng rơi béng hết
xuống đường trong đêm tối.
Lại nói về bộ ba: Lê Tấn Lộc (hiện là giám đốc FiBI),
Hoàng Minh Châu (giám đốc FPT-HCM) và Ngô Vi Đồng (Giám đốc HiPT-HCM).
Các anh chơi với nhau đã lâu. Lúc đó anh Lộc là trưởng phòng kỹ thuật
của Trung tâm máy tính Ngân hàng Công thương HCM (ICB-HCM). Anh chính
là người khởi xướng và điều hành việc vi tính hóa các hoạt động của
ICB-HCM từ năm 1988. Thời gian đầu, anh đã mô phỏng các hoạt động của
mạng bằng cách copy đĩa mềm chạy từ máy nhân viên sang máy giám đốc.
Anh và anh Đồng cũng là những người đầu tiên đa mạng LAN chạy trên Netware
2.11 vào hoạt động năm 1989. Anh Châu lúc đó cũng đã nổi tiếng là một
tay bán font chữ Việt và thầy dạy máy tính cho các học viên mà bây giờ
đều đang ở chức vụ cao cả...
Bộ Tam này có một tài uống bia hết sức đáng nể. Lần
đầu tiên đi theo các anh từ 7h tối đến 11h00, thấy lục tục đứng lên
tôi mừng quýnh. Ai ngờ các anh chuyển sang quán khác để thay đổi khung
cảnh. Vì là đi thụ giáo, nên tôi cũng sẵn lòng đi theo. Buồn cười nhất
là tự nhiên tôi trở thành ma bia rượu dưới con mắt của Mr.Lộc. Chẳng
là anh không thể hiểu được có thằng không uống mà lại mất công đi khuya
như vậy. Do đó anh kết luận là chắc tôi cũng uống như điên, có điều
anh hơi xỉn nên không nhận thấy. Thậm chí anh còn thông báo với 1 số
bạn bè: "Thằng Nam uống được lắm" làm tôi cũng có lúc lấy
làm hãnh diện lắm.
Để bắt đầu việc học tập, tôi được anh Lộc đưa cho một
cuốn sách: "Kế toán Ngân hàng" cũ kỹ không thể tưởng tượng,
xuất bản từ năm 1966 gì đó. Cuốn sách in Roneo trên giấy đen sì đó đã
cho tôi những khái niệm cơ bản nhất về các hoạt động nghiệp vụ của một
ngân hàng thương mại. Sau khi liếc qua chương trình thấy cũng chỉ gồm
có một ít các menu, tôi yên tâm bay ra, thông báo với các sếp là có
thể bắt đầu dự án.
Nói đến Ngân hàng Hàng hải, không thể không nhắc đến
anh Chu Quang Thứ, một người cuồng tín về máy tính. Lần đầu tiên được
gặp anh, chúng tôi thấy anh đang chăm chú debug một chương trình. Tôi
và anh Ngọc không tin vào mắt mình. Cũng nhờ có chỉ thị của anh "Tôi
muốn tất cả những báo cáo của Ngân hàng đều được in ra bằng máy tính,
ngay từ ngày đầu" mà cái thằng tôi, đang võ vẽ về Ngân hàng với
Mr. Nguyễn Hữu Đức, thậm chí còn ậm ờ cả về máy tính giữ được cho toàn
bộ hệ thống hoạt động. Khi đó văn phòng của anh cách Ngân hàng khoảng
500 mét. Anh chỉ thị phải thường xuyên có số liệu trên máy. Nhờ sự nỗ
lực của Hùng xoăn, máy của anh được cài đặt remote workstation và hàng
ngày download dữ liệu về. Anh thường xuyên ra quyết định dựa trên các
thông tin có trong máy của mình. Vì thế, có lần chương trình lỗi cập
nhật số dư không chính xác, bị chuyển tiền sai, khách hàng kiện, chúng
tôi lo lắm. Gặp anh, anh chỉ cười: "Cái gì mới mà chẳng sai, các
em cứ thế mà làm". Nhờ có lãnh đạo như vậy, hệ thống tin học của
Ngân hàng Hàng hải đã phát triển khá nhanh trong một thời gian ngắn.
Những bài toán mà các Ngân hàng khác hiện vẫn đang đau đầu như thanh
toán tập trung, quản lý và điều hòa vốn, báo cáo toàn ngân hàng, đã
được giải quyết tại NHHH từ lâu. Có người nói là tại Ngân hàng có quy
mô nhỏ. Tôi thì tin chắc rằng vì họ có một người lãnh đạo như anh Thứ:
quyết đoán, có yêu cầu rõ ràng và tôn trọng chất xám.
Mr. Nguyễn Hữu Đức cũng là một tay gàn, Mặc dù tốt
nghiệp về kinh tế, chẳng biết gì về máy tính, vậy mà anh cũng dám nhận
chức trưởng phòng máy tính đảm đương việc triển khai chương trình trong
toàn hệ thống. Tôi có với anh một kỷ niệm rất đáng yêu. Hồi đó tôi được
coi là thượng khách của Ngân hàng, được bố trí ở Nhà khách Hàng hải,
ăn theo chế độ cộng sản, hôm nào cũng cua, tôm, đặc sản. Một hôm anh
Đức bất chợt đến thăm tôi, chắc là cũng hy vọng ăn ghé. Rủi thay, đúng
hôm đó tôi đã quá chán đặc sản, nên đã gọi cô bé phục vụ lại để đổi
lấy cặp lồng cơm với tép rang và rau muống luộc của cô bé đó. Vì lịch
sự nên anh Đức không dám nói. Tôi thì vốn cũng hay vô tâm nên cũng chẳng
để ý. Sau này mỗi khi gặp lại chúng tôi cũng thường nhắc đến việc này
luôn.
Một nhân vật nổi tiếng nữa của FPT là anh Khắc Thành
cũng được rèn luyện trong lò Hàng hải. Khi đó mới chân ướt chân ráo
về nước, máy tính còn đang ú ớ, anh đã được giới thiệu là chuyên gia
hàng đầu và biệt phái về Ngân hàng 6 tháng làm việc cùng anh Đức. Sau
đó quả nhiên anh thành chuyên gia hàng đầu thật. Có lẽ vì quá say mê
với công việc hoặc vì Ngân hàng có quá nhiều em xinh đẹp mà cả anh Thành
lẫn anh Hữu Đức đến bây giờ vẫn: "Phòng không, giờng trống tàn
hoang". Chắc chắn anh Thành có nhiều kỷ niệm với chị em ở đó, không
biết bao giờ anh mới kể ra thôi. Lại nói về Khắc Thành, nhân tiện đi
Hải phòng, hắn liền bị phân công thực hiện hợp đồng cho Liên hiệp Hàng
hải Việt nam. Một hợp đồng có thể coi là ăn theo hợp đồng Ngân hàng.
Bên đội bạn lúc đó có anh Bình là một người rất ưa kỹ thuật. Thấy một
thằng trông mặt mũi lơ ngơ đến, anh rất coi thường. FoxProLan lúc đó
đang là môn mới. Anh Bình demo luôn một chương trình với các loại menu
phức tạp kín màn hình. Khắc Thành bèn rủ Lâm Phương luyện chưởng lập
ra một chương trình kiểu như Xtree trên Fox, gọi là báo cáo nhanh. Anh
Bình có vẻ nể, từ đó hợp tác với ta. Với võ công luyện được, Khắc Thành
còn viết vô khối chương trình trên Fox, trong đó có hẳn một trò chơi
gọi là Dragon, xứng đáng được nhận danh hiệu chuyên gia lập trình Fox.
Chương Hàng hải cũng là một chương quan trọng trong
lịch sử phần mềm của FPT. Chúng tôi gồm có Nam, Thành, Phương, Tấn Vinh
thường xuyên phải xuống. Riêng Thành ở lâu nhất, tổng cộng có đến 6
tháng. Hàng ngày ở Nhà khách Thương nghiệp 15000đ/phòng, ăn cơm quán
em Thắm, theo lời kể khi cảm động thường bế bổng anh Thành lên lòng.
Tôi rất khoái món bánh đa cua Hải phòng, 700đồng/bát.
Trong lúc anh Thành chỉ biệt phái thì có một người
FPT hiện vẫn đang làm cho MSB. Đó là chị Quyên. Chị là học sinh tốt
nghiệp ĐHBK xuất sắc nhất năm 1989 và được anh Ngọc giữ làm nghiên cứu
sinh. Chính chị là người lúc đó đã cùng xuống Hải phòng với tôi tháng
6/91 để trợ giảng cho khóa đào tạo về chương trình Ngân hàng mà cả thầy
lẫn trò đều còn đang mù mờ. Kinh nghiệm chị Quyên và Tú Huyền cho thấy,
một khi phụ nữ đã lập trình, họ có thể lì không kém gì anh em quanh
chiếu bạc.
Balance
Nói đến Software ở FPT không thể không nhắc đến Balance.
Một trong những cố gắng lớn nhất của FPT để xây dựng phần mềm đóng gói.
Mọi sự bắt đầu từ xa xa, cuối năm 1991 khi anh Ngọc ký hợp đồng Tin
học hóa khách sạn Thắng lợi. Bao gồm có 2 chương trình chính: phần lễ
tân và phần kế toán. Phần lễ tân được giao cho Nguyễn Tấn Vinh chủ trì.
Anh làm cũng khá công phu. Chương trình này sau cũng còn được triển
khai ở khá nhiều khách sạn nữa, nhưng chủ yếu là do đội bạn tự copy,
ta chẳng thu được gì. ở đây chỉ muốn nhắc đến phần kế toán. Để làm việc
này, anh Ngọc mời anh Vũ Đức Vượng, cán bộ của Trung tâm máy tính Đại
học Bách khoa làm cộng tác viên của FPT. Một phần vì anh Vượng đã giới
thiệu hợp đồng, phần nữa là do anh Vượng cũng đã có một số kinh nghiệm
trong lĩnh vực này. Toàn bộ hợp đồng được nghiệm thu suôn sẻ. Thừa thắng,
ta ký tiếp hợp đồng với Ngoại giao Đoàn và triển khai chương trình giống
hệt. Tuy nhiên vẫn có cảm giác cái đó không phải là của mình. Vượng
có vẻ không mặn mà với việc đi lâu dài với FPT.
Thời điểm có ý nghĩa quyết định là sau khi Phan Quốc
Khánh hủy hợp đồng với Generalexim, đơn giản vì lý do ta chưa nắm đầy
đủ về nghiệp vụ kế toán. Khánh đề xuất lập nhóm Kế toán và đầu tư chiều
sâu. Chúng tôi viết đơn đề nghị và được anh Phan Ngô Tống Hưng ký duyệt
1.000.000 đồng. Lúc đó là khoảng tháng 5/1992. Thực ra cũng chưa biết
dùng tiền đó vào việc gì. Tôi quên mất nhờ đâu, chúng tôi may mắn gặp
được một chị làm kế toán ở Nhà máy sợi Hà nội nhưng lại rất yêu thích
máy tính, đã từng viết nhiều module tự động hóa tính toán. Đó là chị
Hiền. Chị đã giúp chúng tôi rất nhiều lúc ban đầu, nhất là những khó
khăn mà chị gặp phải chưa giải quyết được. Chẳng hiểu sao chị cũng có
cảm tình với chúng tôi. Sau này khi đã chuyển sang VinaTex, chị vẫn
thường xuyên giúp đỡ chúng tôi kiếm khách hàng. Hồi đó, nhờ chị Hiền
giới thiệu, tôi và Khánh còn mò đến tận nhà chị kế toán trưởng 3C là
chị Hoa vừa để học thêm nghiệp vụ vừa hy vọng kiếm được hợp đồng. Đứng
trong danh sách những người đã bắt đầu sự sống cho Balance, không thể
không kể đến anh Lợi Petrolimex. Nhờ nghiên cứu bản phân tích nghiệp
vụ dày cộp của anh mà Khánh hói đã học thêm được bao nhiêu võ lạ. Anh
cũng đã ký hợp đồng đầu tiên với nhóm kế toán FPT. Kinh nghiệm ở ta
cho thấy, một chương trình ứng dụng mà không được phát triển dựa trên
môi trường thực, có rất ít giá trị. Chỉ sau khi thực hiện hợp đồng với
Petrolimex, chúng ta mới dám nói mình có chương trình kế toán. Cũng
phải nói lời cảm ơn với phòng kế toán FPT, nơi đã cung cấp một môi trường
kiểm nghiệm chương trình không thể chê được.
Giữa năm 1993, Phan Quốc Khánh bắt đầu tìm kiếm một
cái tên thích hợp cho chương trình để dễ bề quảng cáo. Tôi không nhớ
chính xác, nhưng khi đó có một tờ tạp chí có đăng ở bìa 4 quảng cáo
của một hãng tên là Data Control, với 1 cái cân và tiền rơi vung vãi.
Hình vẽ đấy đã gợi cảm hứng cho Khánh đặt tên Balance và chọn luôn cái
cân làm biểu tượng của chương trình. Có thể nói Balance là một tên rất
thành công về mặt ngữ nghĩa.
Sau khi có tên, bắt đầu có hợp đồng. Nhờ sự môi giới
của TT&C, chúng tôi đặt chân được vào các nhà máy sản xuất. Đầu
tiên là Super Lâm Thao, sau đó là Apatit Laocai, rồi Than Quảng ninh,
Phân lân Ninh bình, rồi Kim khí Đông Anh, Kim khí Hà nội, Kim khí Hải
phòng,... Khách hàng hơi nhiều, các bạn cứ chịu khó ngó vào tờ quảng
cáo sẽ thấy. Về phát triển Balance, tôi nhớ 1 chuyện vui vui. Đó là
vào năm 1994. Sau khi quyết định sát nhập QLVT vào Balance, Khánh tổ
chức một cuộc họp dã ngoại để bàn về thiết kế chương trình. Chúng tôi
mò lên khu Hồ tây để thuê phòng, nhưng rủi thay không chỗ nào họ muốn
cho thuê cả. Hỏi ra mới biết họ thấy một hội bặm trợn kéo theo một cô
gái (Vũ Mai Hương), nên họ nghi ngờ lý do thuê phòng. Đành phải quay
về nhà tôi họp suông rồi đi ăn cơm bình dân.
Quá trình hình thành và phát triển của Balance đã phơi
bày tất cả những điểm mạnh và yếu của phần mềm FPT. Với một sự bắt đầu
khôn ngoan, biết lợi dụng thiên thời và có những bước đi hợp lý, chúng
ta vẫn không dựng lên được một sản phẩm xứng đáng với tầm vóc công ty.
Doanh số Balance năm 1996 bắt đầu chựng lại, là hệ quả tất yếu của việc
đầu tư không kiên quyết kiểu đánh trống bỏ dùi, cũng như việc không
chú trọng xây dựng một đội ngũ đủ để nhân rộng chương trình khi cần
thiết. Một bệnh kinh niên nữa của ta là không duy trì được sự nhạy bén
kinh doanh một cách lâu dài, nhiều lúc bị lý trí chi phối làm phức tạp
hóa vấn đề. Sự ra đi của Khánh khỏi FPT năm 1996, chắc chắn sẽ có ảnh
hưởng sâu sắc đến toàn bộ sản phẩm này ở FPT. Tuy nhiên Balance đã giúp
chúng ta khẳng định chắc chắn rằng, nếu chúng ta đi đúng hướng, chúng
ta chắc chắn tồn tại được một cách đàng hoàng trong cuộc sống đầy biến
động này. Sau này khi có dịp tiếp xúc với những người tâm huyết trong
lĩnh vực tin học hóa kế toán như anh Nguyễn Văn Trứ, tác giả KTSys,
anh Phan Đức Trung, tác giả Keyman, chúng tôi mới nhận thức đựơc sự
khó khăn to lớn đang chặn đứng con đường phát triển của những chương
trình đó. Đã đi hết đà của mình, các chương trình đòi hỏi một sự thay
đổi cơ bản về chất. Ai thay đổi được người đó sẽ thắng.
TTVN - Trí tuệ Việt
nam
Không ai ở FPT không biết đến TTVN. Năm 1996 là năm
đăng quang của TTVN. Nhưng nguồn gốc của nó đã bắt đầu từ rất xa xa.
Ngay từ hồi đầu mới thành lập, truyền thông đã là một lĩnh vực mà FPT
thường xuyên quan tâm
Từ năm 1989-1990, dưới sự chỉ đạo của anh Công, Võ
Mai đã bắt tay vào viết chương trình truyền tin trên UNIX. Sau khi anh
Trần Xuân Thuận đi khỏi FPT, không ai quan tâm đến việc đó dưới khía
cạnh thương mại cũng như kỹ thuật. Cho đến năm 1992. Khi FiBI triển
khai chương trình liên hàng cho Ngân hàng Công thương Việt nam, tôi
với Lợi con có bàn với anh Lộc về việc làm một chương trình truyền tin
để gắn với các chương trình ứng dụng. Nhưng việc chưa thành vì thời
gian thực hiện quá gấp. Tuy nhiên mong muốn vẫn còn quanh quẩn đâu đó
trong lòng.
Ngày 16/12/1993. Chúng tôi gồm anh Lộc, anh Sơn (ICB)
và tôi phải quyết định một việc khẩn cấp. Ngân hàng công thương dự định
triển khai chương trình tiết kiệm gửi rút nhiều nơi. Một công ty phọt
phẹt của Việt kiều ở Australia tên là VANACO đã trực tiếp tiếp xúc và
ký được biên bản ghi nhớ với Ngân hàng về việc công ty này sẽ cho ngân
hàng vay để cung cấp thiết bị và phần mềm cho dự án, tổng cộng đến 2
triệu USD. Chúng tôi phải chặn bằng được. Và ngày hôm đó, FiBI đã ký
với Ngân hàng Công thương hợp đồng trị giá 16000 USD (giá chuẩn hồi
đó) để viết chương trình cho phép quản lý tài khoản tiết kiệm của khách
hàng tập trung và triển khai tại 20 chi nhánh của Hà nội và HCM trong
tháng 1/1994! Một hợp đồng kỷ lục ngắn về thời hạn thực hiện. Tôi và
anh Lộc chỉ có vẻn vẹn 3 ngày để thiết kế. Client bằng VB, Host trên
Fox. Tâm đắc nhất là hai anh em thống nhất được cách chuyển/nhận số
liệu từ/đến các chi nhánh lên cuối ngày bằng xe máy hon-da và đĩa mềm.
Vừa an toàn vừa tạo công ăn việc làm thêm cho nhân viên. Việc đồng bộ
hóa số liệu giữa Hà nội và HCM thống nhất sẽ dùng SmartCom III. Bí nhất
vẫn chưa nghĩ được cách để tra cứu số dư tức thời. Tạm thời chúng tôi
thiết kế có mã tra cứu để trong trường hợp bí, giao dịch viên có thể
gọi lên nhờ Trung tâm duyệt hộ và ghi lại mã, giao dịch vẫn được coi
là hợp lệ. Lúc đó đang có phong trào lập trình bằng Visual Basic sau
chương trình cho Hội sở Ngân hàng đầu tư. Sau khi liếc thấy một Control
có chữ Modem và biểu tượng điện thoại, tôi bàn với Đình Anh: thế, thế,....
có làm được trước ngày 1/1 không. Chơi luôn! Thế là hắn xông vào cật
lực. Cù Tuấn thì vẽ màn hình giao dịch, Lâm Phương viết báo cáo. FiBI
viết chương trình Host bằng Fox. Cả bọn làm việc như điên. Nhờ vậy mà
tôi cũng học được VB trong nửa ngày. Ngày 25/12 Cù Tuấn bay vào HCM
để ghép chương trình. Ngày 28, đội HCM lại bay ra thử tiếp. Đúng ngày
2/1 khai trương dịch vụ mới, tôi ngồi tại Hội sở 10 Lê Lai, bọn Đình
Anh, Cù Tuấn mỗi đứa 1 chi nhánh. Thật là kỳ diệu khách hàng có thể
gửi được tiền thật. Đó là chương trình truyền tin đầu tiên áp dụng vào
thương mại của FPT. Đáng nhớ nhất trong vụ này là Cù Tuấn vì chạy đôn
đáo lo chương trình đánh mất mất xe đạp. Sau được anh Sơn tài trợ một
xe mới.
Cuối năm 1994, chúng tôi quyết định phát triển theo
hai hướng. Một thiên về thư tín điện tử do Khánh Văn chủ trì với server
trên Windows. Một là giải pháp tích hợp vào các chương trình ứng dụng
trên Fox/Netware do Đình Anh chủ trì.
(còn nữa) |